Không như các phương pháp Download khác , BitTorrent có tốc độ truyền cao nhất bằng cách tập hợp những đoạn file mà bạn muốn , tải những đoạn này một cách liên tục từ những người đã có chúng . Quá trình này được là phù hợp nếu file bạn cần rất phổ biến và có dung lượng lớn như Video , chương trình TV , tải nhanh nhất có thể được cùng những phương thức khác .
Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu xem BitTorren làm việc như thế nào và nó khác các phương pháp phân chia file khác như thế nào .
1. Phương pháp Client-Server truyền thống
Khi bạn tải một file từ Website nó sẽ làm việc kiểu như sau :
Tốc độ truyền dữ liệu chịu ảnh hưởng bởi một số giá trị thay đổi bao gồm kiểu của giao thức , số lượng máy tính khác đang cùng truy cập tới máy chủ và đang tải các file khác ... Nếu file có dung lượng lớn , và những yêu cầu mà máy chủ cần đáp ứng cũng lớn thì quá trình tải về máy tính sẽ chậm .
2. Phương pháp Peer-To-Peer File Sharing
Một phương pháp khác để truyền file mà bạn cũng có thể nghe nói tới gọi là peer-to-peer file sharing. Trong quá trình này , bạn dùng chương trình phần mềm ( hơn là dùng Web Browser ) để xác định vị trí những máy tính mà có file bạn muốn tải về . Bởi vì những máy tính lúc này tương tự như là máy tính thông thường , không phải là máy chủ , chúng được gọi là Peer . Quá trình xử lí như sau :
Tải kiểu File-Transfer là phân chia giữa những máy tính trao đổi file với nhau , nhưng những file tìm thấy và truyền đi từ máy tính của bạn tới một máy tính khác có thể bị “ thắt nút cổ chai “ . Một vài người sau khi tải file về và ngay lập tức không kết nối mạng nên không cho phép những máy tính khác lấy file trên máy tính của họ , như thế gọi là Leeching . Như thế số máy tính mà phần mềm có thể tìm kiếm file cần thiết là giới hạn .
3. BitTorent làm như thế nào ?
Không như một vài phương thức tải file kiểu Peer-To-Peer khác , BitTorrent là một giao thức ( protocol ) mà theo dõi quá trình tải file mà bạn cần ở các máy tính khác tới một máy chủ trung tâm ( gọi là Tracker ) . Sự khác nhau nữa là dùng nguyên lí Tit-For-Tat ( ăn miếng trả miếng ) . Có nghĩa là bạn cũng sẽ được nhận những cái mà những máy tính cũng được nhận ở file đó . Với nguyên lí này giải quyết được vấn đề Leeching . Với BitTorrent , bạn có thể chia xẻ nhiều file với nhiều máy tính khác , nhanh hơn là bạn tải từ trên máy chủ . Cuối cùng nó sẽ tốt hơn đối với dùng băng thông trên hệ thống Internet có sẵn , BitTorrent sẽ tải nhiều mẩu của file mà bạn cần một cách liên tục từ nhiều máy tính khác nhau .
Dưới đây là công việc của nó :
· Bạn mở trang Web và bấm vào đường Link của file A mà bạn muốn .
· Phần mềm trên máy trạm BitTorrent cùng với Tracker để tìm những máy tính khác mà đang chạy BitTTorrent mà đã có file A đầy đủ ( những máy tính đó gọi là Seed ) và có một phần của file mà bạn cần ( những máy đó thông thường đang trong quá trình tải file A về máy tính của họ ).
· Nhận dạng ra được những dấu vết của file A gọi là Swarm , nối tới những máy tính mà chứa đầy đủ hoặc một phần file A đang trong quá trình nhận hoặc gửi .
· Swarm sẽ giúp phần mềm trên máy trạm của bạn để lấy những đoạn file A từ các máy tính khác . Máy tính của bạn sẽ nhận nhiều đoạn của file A một cách liên tục từ nhiều máy tính khác nhau .
· Nếu bạn tiếp tục chạy phần mềm BiTorrent trên máy trạm sau khi tải file A về thành công , những máy khác có thể nhận những file .torrent từ máy tính của bạn , tốc độ tải về trong tương lại được cải thiện bởi vì khả năng gặp được hệ thống Tit-For-Tat nhiều hơn .
Những đoạn file được tải về trong cùng một lúc giúp đỡ giải quyết vấn đề mà những phương pháp Peer-to-Peer hay gặp phải : những Peer upload có tốc độ thấp hơn so với download . Đối với download nhiều đoạn file được đưa về cùng một lúc nên tốc độ được cải thiện một cách đáng kể . Càng nhiều máy tính trong Swarm thì file truyền càng nhanh do có nhiều nguồn file được gửi đi . Đó cũng chính là nguyên nhân mà BitTorrent đặc biệt hay được dùng đối với những file có kích thước lớn và thông dụng .
4. Tải file cùng với BitTorrent
Để dùng phần mềm BitTorrent để tải file , bạn cần cài đặt BitTorrent trên máy trạm . Nếu bạn dùng Firewall hoặc Network Router thì phải thiết lập chúng cho phép chấp nhận những file BitTorrent . Các bước tiến hành cài như sau :
· Tải và cài đặt phần mềm BitTorrent trên máy trạm . Chương trình này thuộc loại mã nguồn mở nên bạn dễ dàng dùng và phát triển theo ý muốn . Bạn có thể vào trang www.bittorrent.com để tải chương trình về .
· Kiểm tra cấu hình của Router và Firewall để cho phép với những file BitTorrent ( BitTorrent dùng cổng 6881 cho tới 6889 )
· Tìm những file để tải về .
Sau khi bạn thiết lập trên máy tính và sẵn sàng để tải những file .torrent . Bạn có thể tìm kiếm “.torrent” trên Internet để tìm ra những trang mà cho phép dùng với những file BitTorrent . Cũng có những trang riêng biệt cho file BitTorrent được tìm kiếm như www.isohunt.com , www.torrentspy.com . Có những trang hỗ trợ những file BitTorrent trực tiếp để chia sẻ âm nhạc , Video , sách vở ... như : bt.etree.org , www.legaltorrents.com , www.btefnet.net ...
· Tải và mở những file .torrent .
Khi tìm ra file mà bạn muốn , bấm chuột phải vào liên kết .torrent chọn “save target as" và lưu file vào vị trí thuận lợi trên máy tính của bạn . File .torrent chỉ tới file thực sự bạn muốn sẽ được tải về nhanh . Tiếp theo bấm đúp chuột file .torrent trên máy tính của bạn . Phần mềm BitTorrent trên máy trạm sẽ hiển thị và bắt đầu quá trình tải
Như chúng ta đẽ đế cập trước nhiều máy tính đang nhận hoặc đang gửi trong Swarm thì quá trình tải về nhanh hơn . Nếu bạn tải file mà số lượng máy tính trong Swarm ít thì tốc độ truyền sẽ bị chậm
· Cho phép BitTorrent đưa và nhận những đoạn file .
· Để nguyên kết nối sau khi tải về hoàn thành để chia sẻ cho những những file .torrent của bạn cho những máy tính khác .
Card màn hình có công việc hết sức phức tạp , nhưng nguyên lí và những thành phần cấu thành nó rất dễ dàng để hiểu . Trong phần này chúng ta chỉ nói tới những phần cơ bản và những nhân tố tác động tới tốc độ và hiệu quả của Card màn hình .
Card màn hình tạo nên những khung hình kiểu dây , sau đó lấp đầy nó và thêm kết cấu và độ bóng .
Những phần cơ bản của Card màn hình .
Chúng ta thử nghĩ máy tính như là một công ty có bộ phận phụ trách về nghệ thuật . Khi ai đó trong công ty muốn làm một phần công việc nghệ thuật , họ gửi yêu cầu tới bộ phận nghệ thuật . Bộ phận nghệ thuật quyết định làm thế nào để tạo được hình ảnh và sau đó đặt nó lên giấy . Và kết quả là ý tưởng của ai đó trở thành thực tiễn và bức tranh có thể xem được .
Trong Card màn hình có 04 thành phần chính
Card màn hình làm việc với cùng một nguyên lí . Bộ vi xử lí kết hợp với phần mềm ứng dụng , gửi thông tin về hình ảnh tới Card màn hình . Card màn hình quyết định dùng như thế nào những Pixel trên màn hình để tạo hình ảnh . Sau đó nó gửi thông tin tới màn hình hiển thị thông qua Cable.
Hình ảnh được tạo ra là dữ liệu nhị phân được yêu cầu xử lí . Để làm hình ảnh 3D , Card màn hình đầu tiên tạo khung dây bằng những đường thẳng
Sau đó nó vạch thêm những Pixel còn lại của hình ảnh . Nó cũng thêm ánh sáng , kết cấu và màu . Đối với những trò chơi tốc độ hình cao , máy tính phải xử lí quá trình này 60 lần /giây . Không một Card màn hình nào có thể tính toán thực hiện được , quá nhiều việc mà máy tính có thể làm được .
Bộ vi xử lí và bộ nhớ của Card màn hình
Tương tự như Mainboard , Card màn hình là bảng mạch in mà chứa bộ vi xử lí (Graphics Processing Unit – GPU ) và bộ nhớ RAM . Nó cũng có Chip BIOS (input/output system) mà lưu trữ những thiết lập của Card và thực hiện chuẩn đoán bộ nhớ Card màn hình cùng với Input và Output bắt đầu .
GPU được thiết kế đặc biệt để thực hiện những tính toán toán học phức tạp và tính toán hình học mà cần thiết cho trình diễn đồ hoạ . Quá trình làm việc GPU cũng rất nóng nên thông thường có bộ phận tản nhiệt hoặc quạt bên trên để làm mát .
Để tăng cường hiệu suất làm việc , GPU dùng những lập trình đặc biệt để giúp cho việc phân tích và sử dụng dữ liệu . ATI và NVIDIA là hai hãng sản xuất hầu hết GPU cho các loại Card màn hình và họ phát triển phần tăng tốc riêng cho hiệu suất của GPU . Để cải thiện chất lượng hình ảnh , GPU dùng :
Mỗi một công ty phát triển tính năng kỹ thuật riêng để giúp cho GPU tạo nên màu sắc , độ bóng , kết cấu và những hình mẫu .
GPU tạo những hình ảnh nó cần chỗ nào đó để lưu giữ thông tin và những búc hình hoàn chỉnh . Nó dùng bộ nhớ RAM để thực hiện mục đích đó , dữ liệu được lưu trữ theo mỗi một Pixel , màu sắc và vị trí của nó trên màn hình . Một phần của RAM cũng làm việc như là một bộ đệm khung hình , có nghĩa là nó giữ những hình ảnh đầy đủ cho tới khi chúng được hiển thị trên màn hình . Thông thường bộ nhớ Video có tốc độ rất cao và
RAM nối trực tiếp tới bộ chuyển đổi digital-to-analog converter, gọi là DAC . DAC cũng được gọi là RAMDAC , chuyển hình ảnh thành tín hiệu tới màn hình hiển thị có thể sử dụng . Một vài Card có nhiều RAMDAC mà có thể cải tiến hiệu suất và hỗ trợ nhiều màn hình hiển thị .
RAMDAC gửi hình ảnh cuối cùng tới màn hình thông qua Cable .
Điều đầu tiên bạn cần kiểm tra đó là liệu máy tính của bạn có chấp nhận màn hình thứ hai hay không. Để làm được điều này, tất cả những gì bạn cần làm là quan sát phần panel phía sau máy tính, lần theo sợi dây nối màn hình với PC của bạn là bạn đã có thể tìm được đầu racủa card video.
Ngày nay tất cả các card video đều có hai đầu ra, cho phép bạn nối thẳng hai màn hình vào PC mà không cần thêm bất kỳ thiết bị phần cứng nào. Tuy nhiên, nếu chiếc máy tính của bạn chỉ có video on-board – tức là không có card video thực; mà video chỉ do bo mạch chủ tạo ra – thì có lẽ bạn chỉ có thể nối một màn hình vào PC của bạn. Loại video on-board này còn được biết đến với nhiều tên khác như video tích hợp hoặc đồ hoạ tích hợp. Nếu bạn rơi vào trường hợp này, bạn sẽ cần mua một chiếc card video “thực” để cài vào PC, đảm bảo rằng bo mạch chủ vẫn còn khe cắm để cài một card video bổ sung (một số bo mạch chủ loại cấp thấp với video on-board không có khe cắm dành cho card video, vì thế máy tính của bạn không thể sử dụng hai màn hình được).
Thật là tuyệt, nhưng bạn có biết PC của bạn sử dụng cấu hình gì không? Nếu câu trả lời là không thì chúng tôi sẽ giúp bạn.
Trong hình 1 và 2 bạn có thể thấy mặt sau của hai loại card video phổ biến nhất trên thị trường. Hãy lần theo sợi dây nối màn hình với PC, bạn sẽ biết được PC của bạn dùng kết nối loại gì. Card video trong hình 1 có hai đầu nối, một vài chân và thường có màu trắng, còn loại card video trong hình 2 lại sử dụng một đầu nối DVI và một đầu nối VGA, với 15 chân và thường có màu xanh.
Hình 1: Card video với hai đầu nối DVI.
Hình 2: Card video với một đầu nối DVI và một đầu nối VGA.
Do bạn đã có sẵn một màn hình, nên cái bạn thường gặp khi nhìn vào sợi dây nối màn hình với PC chính là đầu nối DVI như trong hình 3. Đây chính là nơi bạn sẽ nối màn hình thứ 2 của mình.
Hình 3: Thường thì các PC đều có đầu nối DVI.
Còn nếu bạn không tìm thấy đầu nối VGA hoặc DVI nào trên PC của bạn, hoặc nếu nó nằm ở vị trí khác với trong hình 3, nhiều khả năng là máy tính của bạn sử dụng video on-board. Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về trường hợp này.
Xử lý video On-Board
Nếu máy tính của bạn dùng video on-board, bạn cần kiểm tra kỹ xem nó có đầu ra video thứ hai hay không. Phần lớn các PC dùng video tích hợp đều không hỗ trợ hai màn hình nếu bạn không cài card video “thực,” nhưng nếu may mắn, PC của bạn vẫn có đầu ra video thứ hai.
Hình 4 là một panel sau của một bo mạch chủ điển hình. Như bạn đã thấy, chỉ có một đầu nối video (đầu nối VGA), đang được sử dụng cho màn hình hiện thời. Nếu máy tính của bạn cũng có dạng như vậy, bạn sẽ không thể cài thẳng màn hình thứ hai vào được, mà sẽ phải mua một card video bổ sung.
Hình 4: Bo mạch chủ điển hình với video on-board. Loại bo mạch chủ này (ECS GeForce6100SM-M) chỉ có một đầu ra video.
Khi đó bạn sẽ cần mua một card video và cài đặt lên máy tính của mình. Khi đã có card video “thực”, bạn sẽ có thể nối tối đa 3 màn hình với máy tính của bạn. (một màn hình trên đầu nối VGA on-board và hai màn hình còn lại trên card video mới) -- tất nhiên là bạn cần mua một card video có hai đầu ra. Cần chú ý rằng một số bo mạch chủ cấp thấp không có ổ cắm để cài card video bổ sung. Còn trên phần lớn các máy tính hiện tại, khe cắm này có tên “x16 PCI Express,” và bạn nên kiểm tra xem liệu máy tính của mình có loại khe cắm này không bằng cách nhìn vào bo mạch chủ hoặc tìm trực tiếp khe cắm này trên bo mạch chủ. Hình 5 cho chúng ta thấy cùng bo mạch chủ như hình 4 với vị trí khe cắm x16 PCI Express. Chú ý rằng màu của khe cắm này không cố định: nó có thể là màu đen, xanh, vàng, cam, đỏ…
Hình 5: Khe cắm x16 PCI Express.
Còn hình 6 cho bạn thấy panel sau của một bo mạch chủ với video on-board có hai đầu ra video. Với loại bo mạch chủ này, bạn có thể cài đặt một màn hình video thứ hai mà không cần cài thêm bất kỳ phần cứng nào khác. Do màn hình hiện tại của bạn có thể đã nối với đầu nối bo mạch chủ VGA, nên bạn cũng sẽ gặp lại trường hợp của hình 3, và tất cả những gì bạn cần làm là cài đặt màn hình mới vào đầu nối DVI sẵn có.
Hình 6: Bo mạch chủ với video on-board và hai đầu ra video (ASUS M2A-VM).
Kết nối màn hình thứ hai
Việc nối màn hình thứ hai cũng rất đơn giản, tuy vậy có một số điều bạn cần biết trước khi tiến hành.
Tất cả những bước dưới đây đều phải được tiến hành khi bạn đã tắt máy tính.
Hãy giả dụ rằng đầu nối video trên máy tính của bạn là đầu nối DVI. Trên thực tế, màn hình video có thể sử dụng đầu nối VGA, DVI hoặc cả hai. Nhưng lý tưởng nhất vẫn là đầu nối DVI.
Sau khi mua màn hình thứ hai, bạn cần xem kiểu kết nối nó sử dụng. Trong hình 7 là hai đầu nối VGA và DVI, tuy vậy bạn nên nhìn vào mặt sau của màn hình để biết được nó sử dụng kiểu kết nối nào. Một số màn hình hiện nay sử dụng cả hai đầu nối (xem hình 8). Nếu bạn đang dùng màn hình như vậy, bạn nên mua dây nối DVI chứ không nên dùng dây VGA.
Hình 7: Hai đầu nối VGA và DVI
Hình 8: Màn hình video này (Samsung SyncMaster 932BW) có cả hai đầu nối VGA và VDI. Hãy sử dụng đầu nối DVI.
Còn nếu màn hình của bạn không có đầu nối DVI, bạn cần dùng adapter (kèm với card video) để chuyển đầu nối VGA sang DVI (xem hình 9 và 10).
Hình 9: Hai adapter VGA và DVI (bạn chỉ cần 1 trong 2).
Hình 10: Dây nối VGA được chuyển thành DVI.
Giờ đây tất cả những gì bạn cần làm là nối dây màn hình với đầu nối DVI nằm trên mặt sau máy tính, như hình 11. Hãy nhớ rằng chỉ có một vị trí duy nhất mà phích cắm trên dây màn hình cắm vừa vào đầu nối trên card video. Vì thế nếu khi bạn cắm thử và thấy chúng không khớp, đừng cố ấn nó vào, hãy đơn giản quay phích cắm 180º.
Hình 11: Cài đặt màn hình thứ hai lên PC của bạn.
Sau khi cắm dây màn hình vào đầu nối card video, hãy xoay hai con ốc theo chiều kim đồng hồ như hình 12.
Hình 12: Xoay hai con ốc trên phích cắm.
Trên hình 13 là các loại dây cắm từ hai màn hình đã được cắm đúng cách.
Hình 13: Màn hình thứ hai đã được cài đặt đúng cách.
Giờ đây khi hai màn hình đã được cài đặt xong, bạn cần bật máy tính lên. Windows sẽ lập tức nhận màn hình thứ hai và mở rộng desktop.
Ngoài ra bạn cũng có thể cần một số cấu hình khác. Thậm chí ngay cả khi hai màn hình đã hoạt động tốt, bạn
Thiết lập Windows
Hai điều đầu tiên cần làm với Windows: đặt cấu hình video và cài đặt driver màn hình video.
Đầu tiên bạn cần kiểm tra xem driver màn hình đã được cài đặt chưa. Click chuột phải lên desktop, chọn “Properties” (hay “Personalize” trong Windows Vista) từ menu vừa xuất hiện. Sau đó trên cửa sổ vừa hiện ra, hãy chỉnh tab Settings (Display Settings nếu là Windows Vista). Trong tab này, click lên menu thả dưới ô “Display” để kiểm tra xem hai màn hình đã được cài đặt đúng cách hay chưa. Windows sẽ hiển thị tên nhà sản xuất và tên model với mỗi màn hình video bạn có (xem hình 15). Nếu điều này không xảy ra – ví dụ như Windows gọi màn hình của bạn là “Plug and Play Monitor” như hình 14 – bạn cần cài đặt driver màn hình nằm trên CD-ROM monitor. Đưa chiếc CD-ROM này vào ổ đĩa dọc và cài driver theo hướng dẫn, sau đó lặp lại chu trình trên để đảm bảo rằng màn hình đã được nhận đúng.
Hình 14: Driver màn hình chưa được cài driver.
Hình 15: Màn hình video đã cài đúng driver.
Cũng trong cửa sổ này, bạn sẽ cần chỉnh độ phân giải cho mỗi màn hình. Nếu bạn đang dùng màn hình LCD, bạn cần đặt mức độ phân giải cao nhất có thể (1440x900 cho loại màn hình chúng tôi đang sử dụng). Các màn hình LCD chỉ đem lại chất lượng tốt nhất khi hoạt động trong độ phân giải nguyên bản, thường là độ phân giải tối đa mà màn hình hỗ trợ. Còn nếu bạn đặt chúng ở cấu hình thấp hơn, bạn sẽ thấy hình ảnh hơi nhoè. Sau khi đặt độ phân giải cho màn hình, click Apply rồi chọn màn hình còn lại trong ô “Display” và lặp lại quy trình cũ.
Sau khi thiết lập độ phân giải cần thiết, bạn cần đặt tốc độ refresh cho mỗi màn hình. Vẫn trong cửa sổ trên, click ô Advanced (“Advanced Settings” trong Windows Vista) rồi click tab Monitor trong cửa sổ vừa hiện ra. Tiếp đó chọn giá trị lớn nhất có thể trong phần “Screen refresh rate” và click “Ok”, xem hình 16. Lặp lại quá trình này với màn hình thứ hai, chọn màn hình tiếp từ menu thả trong hình 15 và lặp lại các bước vừa rồi.
Hình 16: Đặt tốc độ refresh.
Ngoài ra còn một số cấu hình nữa có thể điều chỉnh bằng cách sử dụng control panel driver, như control panel do nVidia hoặc ATI sản xuất. Trong đó bạn có thể quyết định xem bạn cần một desktop lớn hay bạn muốn màn hình thứ hai lặp lại tất cả những gì trên màn hình thứ nhất. Bạn cũng có thể hiển thị hình ảnh cạnh nhau (ví dụ như một bên trái và một bên phải), hoặc chồng xếp lên nhau. Số lượng cấu hình phụ trợ trên driver control panel tuỳ thuộc vào nhà sản xuất (nVidia hay ATI) và thậm chí tuỳ thuộc vào cả phiên bản, vì thế chúng ta sẽ không đề cập cụ thể từng lựa chọn trong khuôn khổ bài báo này. Tuy nhiên chúng tôi khuyên bạn nên tìm hiểu trước driver control panel, ít nhất là về các loại tuỳ chọn phụ trợ. Bạn có thể truy cập video driver control panel bằng cách click lên desktop hoặc qua một biểu tượng nhỏ trên khay hệ thống (ví dụ như bên cạnh đồng hồ Windows chẳng hạn).
Google Talk (GT) là trình nhắn tin tức thời (IM) của Google và tất nhiên chương trình này chỉ cho phép bạn liên lạc với những người dùng GT khác. Để sử dụng GT, bạn phải có tài khoản Gmail và tải GT về từ talk.google.com.
Giao diện phần mềm Jabber dùng để chat giữa Google Talk và các chương trình IM khác như Yahoo Messenger, MSN... |
Tuy nhiên, điều thú vị là bạn có thể "hack" GT để kết nối với người dùng của nhiều mạng IM khác như AIM, ICQ, MSN Messenger, Yahoo! Messenger... Thật tuyệt nếu bạn có thể dùng một trình IM duy nhất để trò chuyện với bạn bè ở nhiều mạng IM khác nhau. Việc phải làm là kết nối GT với một máy chủ Jabber, rồi từ đó dùng một đường truyền đặc biệt để kết nối tới một mạng IM khác. Tất nhiên, để làm được việc đó thì bạn phải có tài khoản của mạng IM kia.
Để bắt đầu, bạn ghé trang http://psi-im.org để tải một chương trình Jabber miễn phí rồi cài vào máy tính của bạn. Sau khi mở chương trình này, bạn nhấn vào nút Psi ở góc trái phía dưới rồi chọn Account Setup. Khi hộp thoại Jabber Accounts xuất hiện, nhấn vào Add. Trong phần "Name:", gõ Google Talk và nhớ đảm bảo lựa chọn Register New Account phải bỏ trống. Tiếp đó bạn nhấn Add. Hộp thoại Account Properties sẽ xuất hiện, bạn chọn Account rồi nhập địa chỉ Gmail đầy đủ vào phần Jabber ID.
Tiếp đó, chọn Connection, chọn tất cả các lựa chọn trong mục này, gõ talk.google.com vào phần Host rồi nhấn nút Save.
Trở lại cửa sổ Psi, bạn lại nhấn nút Psi và chọn Service Discovery > Google Talk. Khi hộp thoại Service Discovery xuất hiện, bạn điền địa chỉ của bất kỳ máy chủ Jabber công cộng nào vào rồi nhấn Enter. Danh sách các địa chỉ máy chủ Jabber có thể tìm ở www.jabber.org. Tuy nhiên, không phải mọi máy chủ Jabber đều cung cấp đường truyền tới tất cả các mạng IM, nên bạn có thể phải thử vài lần để tìm được máy chủ thích hợp.
Sau khi kết nối trình Psi tới máy chủ Jabber, bạn sẽ thấy một danh sách các đường truyền IM mà máy chủ này cho phép. Chọn một đường truyền bạn muốn, chờ vài giây để Psi thu thập thông tin rồi bấm chuột phải vào và chọn Register.
Khi hộp thoại Registration xuất hiện, điền tên đăng nhập và mật khẩu của mạng IM kia vào rồi nhấn nút Register. Psi sẽ kết nối tới mạng IM đó và thu thập danh sách bạn bè của bạn. Sau khi việc thu thập hoàn tất, bạn đóng Psi rồi mở GT. Khi đó danh sách bạn bè của mạng IM kia sẽ được hiển thị trong GT. Khi bạn bật một nick trong danh sách đó, GT sẽ tự động kết nối tới mạng IM đó để bạn liên lạc một cách nhanh chóng, dễ dàng như trong cùng một mạng.
(Theo Lao Động)
Software | Size | USA | Europe | Beta | ||
ArtIcons 5.19 Pro | 2.5 MB | zip | exe | zip | exe | |||
ArtIcons 5.19 Std | 2.5 MB | zip | exe | zip | exe | |||
IconUtils 4.18 | 5.1 MB | zip | exe | zip | exe | |||
IconLover 4.18 | 2.3 MB | zip | exe | zip | exe | |||
Any to Icon 3.32 | 1.1 MB | zip | exe | zip | exe | |||
Icon to Any 3.02 | 730 kB | zip | exe | zip | exe | |||
ArtCursors 5.16 | 1.5 MB | zip | exe | zip | exe | |||
AhaView 4.0 | 1.3 MB | zip | exe | zip | exe | |||
IconXP 3.17 | 1.3 MB | zip | exe | zip | exe | |||
Business Icon Set | 3.0 MB | zip | zip | |||
Money Icon Set | 1.4 MB | zip | zip | |||
Transport Icon Set | 1.5 MB | zip | zip | |||
Graphic Icon Set | 1.4 MB | zip | zip | |||
Toolbar Icon Set | 2.5 MB | zip | zip | |||
Security Icon Set | 2.4 MB | zip | zip | |||
Database Icon Set | 1.6 MB | zip | zip | |||
E-mail Icon Set | 1.0 MB | zip | zip | |||
Hardware Icon Set | 0.5 MB | zip | zip | |||
Visual Watermark 2.1 | 1.25 MB | exe | exe | |||
Online Icon Set | 1.7 MB | zip | zip | |||
Free Versions |